Tình hình kinh tế – xã hội khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, ngành nông nghiệp duy trì tăng trưởng ổn định, sản lượng một số cây lâu năm chủ yếu tăng so với cùng kỳ năm trước, nuôi trồng thủy sản tăng khá. Giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp sáu tháng đầu năm 2024 tăng 3,15% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,27 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành lâm nghiệp tăng 5,34% nhưng chiếm tỷ trọng thấp nên chỉ đóng góp 0,03 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 3,76%, đóng góp 0,09 điểm phần trăm.
Về sản phẩm lúa gạo
Diện tích gieo trồng lúa cả nước tính đến giữa tháng 6 năm 2024 đạt 5,03 triệu ha, tăng 0,9%, diện tích thu hoạch lúa đạt 3,48 triệu ha, tăng 0,5% và sản lượng thu hoạch đạt 23,32 triệu tấn, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm 2023.
Tính đến 15/6/2024, các địa phương trên cả nước đã xuống giống được 1.825,4 nghìn ha lúa Hè – Thu, bằng 98,3% cùng kỳ năm trước, trong đó vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 1.419,3 nghìn ha, bằng 97,8%. Nguyên nhân diện tích gieo trồng lúa Hè – Thu giảm so cùng kỳ do ảnh hưởng của thời tiết nắng nóng, mưa đến muộn, thiếu nước tưới nên tiến độ xuống giống muộn. Hiện lúa Hè – Thu các địa phương phía Nam đang trong giai đoạn đẻ nhánh, làm đòng đến trỗ chín, các trà lúa phát triển tương đối tốt. Đến nay, có 196,0 nghìn ha lúa Hè – Thu sớm tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long cho thu hoạch, bằng 84,0% cùng kỳ năm trước. Từ nay đến năm 2030 dự kiến cần khoảng 2,7 tỷ USD từ các nguồn vốn để thực hiện Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao.
Giá thu mua lúa bình quân tháng 6 tại một số tỉnh ĐBSCL giảṃ nhẹ so với tháng trước nhưng vẫn ở mức cao so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể, tại An Giang giá thu mua lúa IR50404 ướt bình quân ở mức 7.275 đồng/kg, giảm 225 đồng/kg so với tháng 5/2024; giá thu mua lúa OM5451 tươi bình quân ở mức 7.329 đồng/kg, giảm 321 đồng/kg. Tại Kiên Giang giá thu mua lúa OM5451 bình quân ở mức 7.575 đồng/kg, giảm 125 đồng/kg.
Về sản phẩm rau, củ, quả
Sản lượng rau các loại 6 tháng năm 2024 đạt 10.381 nghìn tấn, tăng 2% so với cùng kỳ năm 2023, dự kiến sản lượng rau các loại 9 tháng năm 2024 đạt 13.967 nghìn tấn
Theo Vtv.vn đưa tin, xuất khẩu rau quả tiếp tục giữ vị trí dẫn đầu trong xuất khẩu NLTS với kim ngạch gần 3,5 tỷ USD chỉ trong 6 tháng đầu năm nay, tăng hơn 28% so với cùng kì năm ngoái. Sầu riêng, thanh long, chuối, v.v. đều là những mặt hàng trái cây đóng góp chính vào tăng trưởng xuất khẩu nửa đầu năm. Bên cạnh các sản phẩm chế biến, các thị trường chủ lực cũng ghi nhận mức tăng 10-50% so với cùng kỳ năm ngoái. Theo Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam, sản lượng về rau quả tăng lên khoảng 6%/năm, lượng cung rất lớn và ổn định. Nhu cầu của thị trường thế giới tăng lên, từ nay đến hết năm 2024 ngành rau quả Việt Nam vẫn có những điều kiện thuận lợi để phát triển
Một số loại quả:
– Sầu riêng: sản lượng dự kiến tính đến tháng 7 đạt 541,4 nghìn tấn, tập trung nhiều ở các tỉnh Tiền Giang, Đồng Nai, Đắk Lắk, Vĩnh Long. Giá thu mua sầu riêng có xu hướng giảm, tại Tiền Giang, sầu riêng Ri6 loại 1 bình quân ở mức 66.133 đồng/kg, giảm 4.235 đồng/kg so với tháng 5/2024; sầu riêng Monthong loại 1 bình quân tại ở mức 80.800 đồng/kg, giảm 2.621 đồng/kg.
– Thanh long: sản lượng dự kiến tính đến tháng 7 đạt 679,5 nghìn tấn, sản lượng tập trung nhiều nhất ở các tỉnh Bình Thuận, Tiền Giang, Long An. Giá thu mua thanh long ruột đỏ BQ vẫn đang ở mức cao khiến bà con nông dân phấn khởi, ra sức thâm canh để nâng cao hiệu quả kinh tế. Đặc biệt khi đây là thời điểm mùa hè, nhu cầu tiêu thụ thanh long tăng đáng kể, cụ thể: tại Tiền Giang giá thu mua thanh long ruột đỏ bình quân ở mức 30.000 đồng/kg, tăng 3.500 đồng/kg so với tháng 5/2024; thanh long ruột trắng bình quân ở mức 23.667 đồng/kg, tăng 1.667 đồng/kg.
– Xoài: tổng sản lượng dự kiến tính đến tháng 7 đạt 721,8 nghìn tấn, chủ yếu ở các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Đồng Nai, Vĩnh Long, Sơn La. Giá xoài ở mức cao so với cùng kỳ năm trước do thời tiết thất thường ảnh hưởng đến sản lượng xoài, ngoài ra nhiều nông dân chuyển sang trồng mít và sầu riêng dẫn đến nguồn cung thấp hơn năm trước, thêm vào đó nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu tăng mạnh nên giá xoài ở mức cao.
Về sản phẩm chè
Sản lượng chè cả nước dự kiến tính đến tháng 7/2024 đạt 712,5 nghìn tấn, các tỉnh có 7 đạt 10 nghìn tấn và tổng 6 tháng đầu năm đạt 32,2 nghìn tấn. Giá chè tại miền Bắc tiếp tục giảm so với tháng trước do nhu cầu tiêu dùng của người dân giảm. Tại vùng chè Phú Lương, Thái Nguyên giá thu mua chè búp tươi bình quân 30.000 đồng/kg, giảm 385 đồng/kg so với tháng 5/2024. Tại Lâm Đồng giá chè không có sự thay đổi nhiều so với tháng trước, cụ thể: giá thu mua chè cành bình quân ở mức 9.800 đồng/kg; chè hạt ở mức 5.600 đồng/kg.
Về chăn nuôi và sản phẩm thịt
– Chăn nuôi: Tình hình chăn nuôi lợn trên cả nước tháng 6 có nhiều khởi sắc hơn so với các tháng trước và cùng kỳ năm ngoái do giá bán thịt hơi tăng đều trên cả nước. Tổng số lợn của cả nước ước tính đến thời điểm cuối tháng 6 tăng 2,9% so với cùng thời điểm năm 2023. Đàn gia cầm phát triển ổn định, khu vực doanh nghiệp phát triển tốt, dịch bệnh được kiểm soát. Giá bán sản phẩm nhìn chung đảm bảo người nuôi có lợi nhuận. Tổng số gia cầm của cả nước ước tính đến thời điểm cuối tháng 6 tăng 2,3% so với cùng thời điểm năm 2023. Đàn trâu vẫn tiếp tục xu hướng giảm ở nhiều tỉnh, tổng số trâu của cả nước ước tính đến thời điểm cuối tháng 6 giảm 3,9%, so với cùng thời điểm năm 2023. Đàn bò trong tháng có xu hướng giảm đàn ở hầu hết các địa phương, tổng số bò của cả nước ước tính đến thời điểm cuối tháng 6 giảm 0,9% so với cùng thời điểm năm 2023
– Sản phẩm thịt:
Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng 6 tháng ước đạt 2.536 nghìn tấn tăng 5,1% so với cùng kỳ năm
trước. Do tại một số tỉnh tại Tây Nguyên và Đông Nam Bộ đang có tốc độ tăng trưởng chăn nuôi khá
cao do các doanh nghiệp chăn nuôi mở rộng sản xuất, và nhiều doanh nghiệp mới đi vào hoạt động và cho sản phẩm. Giá lợn thịt hơi xuất chuồng tại Việt Nam theo xu hướng tăng và bắt đầu tăng mạnh (giống như đa số quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới) từ tháng 3/2024, giá thịt lợn hơi bình quân đang dao động từ 62 – 68 nghìn đồng/kg tùy địa phương và tùy vùng.
Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng ước đạt 255,9 nghìn tấn tăng 1,1%. Tổng số đàn bò trên cả nước đang ở mức ổn định. Tháng 6 năm 2024, giá thu mua thịt bò hơi bình quân tại các tỉnh phía Nam tăng nhẹ so với tháng trước. Cụ thể: giá thu mua thịt bò hơi bình quân tại Đồng Nai giao dịch ở mức 75.750 đồng/kg, tăng 350 đồng so với tháng 5/2024; tại Vĩnh Long giữ ổn định ở mức 86.000 đồng/kg
Sản lượng thịt gia cầm hơi ước đạt 1.212 nghìn tấn tăng 4,9% so với cùng kỳ năm trước. Do đàn gia cầm phát triển ổn định, khu vực doanh nghiệp phát triển tốt, dịch bệnh được kiểm soát. Do nguồn cung gà tại miền Trung và miền Nam thiếu hụt giúp giá thịt gà duy trì ở mức khá cho người chăn nuôi. Cụ thể: Tại Đồng Nai giá thu mua gà công nghiệp bình quân ở mức 28.625 đồng/kg, tăng 25 đồng/kg so với tháng 5/2024; giá thu mua gà công nghiệp lông màu bình quân ở mức 48.121 đồng/kg, tăng 1.721 đồng/kg; tại Vĩnh Long giá thu mua gà công nghiệp bình quân ở mức 33.111 đồng/kg, giảm 222 đồng/kg. Do tổng đàn gia cầm trên cả nước tăng nên sản lượng trứng ước đạt 10.071 triệu quả tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước.
Về sản phẩm thủy sản
Tổng sản lượng thủy sản tháng 6/2024 đạt 4.384,7 nghìn tấn, tăng 2,7%, trong đó khai thác là 1.953,3 nghìn tấn, tăng 1% và nuôi trồng là 2.431,4 nghìn tấn, tăng 4,1 % so với cùng kỳ năm trước. Trong cơ cấu sản lượng thủy sản có Khai thác cá biển chiếm tỷ trọng cao nhất là 1.455 nghìn tấn (33%), cá tra 832 nghìn tấn (19%), cá nuôi khác 825 nghìn tấn (19%), tôm nước lợ 455 nghìn tấn (10%),…
Sản lượng cá tra 6 tháng năm 2024 đạt 832 nghìn tấn, tăng 5,4%, tập trung nhiều nhất ở các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, giá cá tra nguyên liệu có dấu hiệu giảm. Sản lượng cá ngừ đại dương 6 tháng đạt 11.281 tấn, tập trung nhiều nhất ở Bình Định, Khánh Hòa, Phú Yên, giá cá ngừ ổn định so với tháng trước. Sản lượng tôm sú 6 tháng đạt 122,1 nghìn tấn, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước, tập trung nhiều nhất ở Cà Mau, Kiên Giang, Bạc Liêu, giao dịch tôm sú nguyên liệu tại ĐBSCL trong tuần đầu tháng 6 có dấu hiệu sôi động trở lại do được hỗ trợ bởi nguồn cung tôm sú quảng canh cỡ 20-25con/kg tăng, tuy nhiên sang đến kỳ giữa tháng 6 lại có dấu hiệu chậm lại
Nguồn: TT Chuyển đổi số và Thống kê nông nghiệp; TT Thông tin Phát triển nông nghiệp nông thôn; Tổng cục Thống kê